Ung thư cổ tử cung hiện đang là một trong những căn bệnh nguy hiểm hàng đầu đối với sức khỏe của phụ nữ trên toàn cầu. Căn bệnh này không chỉ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và khả năng sinh sản của phụ nữ mà còn cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người mỗi năm. Tại Việt Nam, theo thống kê từ GLOBOCAN, mỗi năm có khoảng 6.200 ca ung thư liên quan đến virus HPV, và hơn 2.500 phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung. Điều đáng nói là bệnh có xu hướng gia tăng và trẻ hóa, gióng lên hồi chuông báo động về sự chủ quan trong việc phòng ngừa và tầm soát căn bệnh này.

Cổ tử cung là một cơ quan quan trọng trong hệ sinh dục nữ giới, đóng vai trò then chốt đối với sức khỏe, sinh lý và khả năng sinh sản của người phụ nữ. Theo số liệu thống kê toàn cầu, ung thư cổ tử cung đứng thứ tư về số ca mắc mới ở nữ giới với 662.301 trường hợp và 348.874 ca tử vong. Tại Việt Nam, số liệu ghi nhận 4.612 ca mắc mới và 2.571 ca tử vong do ung thư cổ tử cung. Nếu không có biện pháp dự phòng và can thiệp kịp thời, số ca tử vong do ung thư cổ tử cung có thể tăng lên 200.000 ca vào năm 2070.

Nguyên nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung là do nhiễm virus HPV (Human Papilloma Virus). HPV là một nhóm siêu vi gây u nhú ở người, thường lây truyền qua đường tình dục. Có khoảng 200 chủng HPV khác nhau, trong đó khoảng 40 chủng lây truyền qua đường tình dục và gây bệnh ở các cơ quan sinh dục. Nhiều người thường lầm tưởng rằng nhiễm HPV sẽ dẫn đến ung thư cổ tử cung, nhưng thực tế, nếu ngăn ngừa được tình trạng nhiễm HPV dai dẳng hoặc phát hiện sớm và can thiệp điều trị kịp thời các tổn thương do HPV gây ra, thì có thể ngăn ngừa được nguy cơ tiến triển thành ung thư.

Hiện nay, tại Việt Nam có 2 loại vắc xin ngừa HPV là Gardasil và Gardasil 9, đều có tác dụng phòng ngừa hai chủng virus có nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung là HPV type 16 và 18. Tuy nhiên, việc tiêm vắc xin HPV không thay thế cho các xét nghiệm tầm soát định kỳ. Tầm soát chính là biện pháp sàng lọc hiệu quả giúp phát hiện những bất thường ở cổ tử cung dù chưa có triệu chứng. Thông thường, khi tế bào cổ tử cung biến đổi bất thường sẽ mất từ 15 đến 20 năm mới phát triển thành ung thư.

Phương pháp tầm soát và tần suất thực hiện sẽ được chỉ định phù hợp dựa trên độ tuổi cũng như tiền sử bệnh lý ở nữ giới. Các xét nghiệm tầm soát tế bào học (Pap Smear, Thinprep) nếu âm tính sẽ thực hiện 2 năm/lần; xét nghiệm HPV DNA nếu âm tính có thể thực hiện 3 năm/lần; bộ đôi xét nghiệm tế bào học và HPV DNA nếu âm tính có thể thực hiện lặp lại 5 năm/lần. Trường hợp kết quả xét nghiệm tầm soát bất thường, bác sĩ sẽ chỉ định thêm các xét nghiệm chẩn đoán tổn thương tiền ung thư như soi cổ tử cung, sinh thiết và nạo sinh thiết cổ tử cung.
Bác sĩ sẽ kết hợp thêm các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại như chụp cộng hưởng từ (MRI) để xác định chính xác giai đoạn đối với các trường hợp ung thư xâm lấn. Với mong muốn mang đến thông tin chính thống giúp nữ giới tầm soát và dự phòng sớm các nguy cơ, điều trị tận gốc ung thư cổ tử cung bảo vệ sức khỏe, khả năng sinh sản và chất lượng sống, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh tổ chức chương trình tư vấn sức khỏe trực tuyến ‘Hiểu về ung thư cổ tử cung: Dự phòng, tầm soát sớm và điều trị tận gốc’.