Sự hy sinh – Phunuthudo.com https://phunuthudo.com Tạp chí phụ nữ thủ đô Sat, 30 Aug 2025 00:40:58 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/phunuthudo/2025/08/phunuthudo-icon.svg Sự hy sinh – Phunuthudo.com https://phunuthudo.com 32 32 Hóa giải bi kịch và thủ đoạn trong cung đình qua màn ảnh https://phunuthudo.com/hoa-giai-bi-kich-va-thu-doan-trong-cung-dinh-qua-man-anh/ Sat, 30 Aug 2025 00:40:53 +0000 https://phunuthudo.com/hoa-giai-bi-kich-va-thu-doan-trong-cung-dinh-qua-man-anh/

Đại kết cục của bộ phim Triều Tuyết Lục đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người xem, khi tất cả các nhân vật chính đều tìm thấy sự hạnh phúc và viên mãn. Tuy nhiên, hành trình đến được với kết thúc này không hề đơn giản, mà trải qua nhiều tầng cảm xúc phức tạp, từ những giây phút vui vẻ, hạnh phúc đến những hồi hộp, đau thương và tiếc nuối.

Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục

Trong những tập cuối cùng của bộ phim, khán giả đã được chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân diễn ra trong bối cảnh chết chóc và bi kịch. Các cặp đôi như Yên Trì và Tần Hoản, Thái tử và Tần Triều Vũ, đều phải trải qua những thử thách và khó khăn để đến được với nhau. Đặc biệt, cuộc hôn nhân của Yên Trì và Tần Hoản là một điểm nhấn đặc biệt, khi họ vẫn cố gắng tạo ra một không khí hạnh phúc và ấm áp, dù trong hoàn cảnh khó khăn. Sự kiên trì và tình yêu của họ đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn và thử thách.

Thành Vương. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Thành Vương. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục

Tuy nhiên, không phải tất cả các nhân vật đều có kết thúc có hậu. Thái tử Yên Triệt là một nhân vật bi kịch, khi hắn sống dưới cái bóng của Hoàng hậu và không dám sống theo cảm xúc của mình. Cái chết của hắn là kết cục không tránh khỏi của một người không biết giành lấy hạnh phúc, cũng không dám từ chối định mệnh. Sự thất bại của hắn đã để lại nhiều thương tiếc cho người xem.

Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục

Một trong những điểm nhấn quan trọng của bộ phim là việc phanh phui sự thật về kẻ đang ngồi trên ngai vàng. Qua nhiều manh mối và chi tiết được cài cắm từ sớm, Yên Trì và Tần Hoản đã vạch trần sự thật rằng kẻ đang ngồi trên ngai vàng là Nghĩa Vương mạo danh. Sự thật này đã được chuẩn bị từ lâu, và khi nó được phơi bày, người xem vừa cảm thấy bất ngờ, vừa đắc ý khi nhận ra những nút thắt được tháo gỡ có lớp lang. Việc phanh phui sự thật này đã giúp Yên Trì và Tần Hoản tìm thấy công lý và thiết lập lại trật tự cho triều đại.

Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục

Đại kết cục của bộ phim Triều Tuyết Lục là một kết thúc viên mãn, khi ngai vàng thuộc về Yên Tuy, người ban hành luật lệ mới để xây dựng một triều đại công bằng hơn. Các cặp đôi phụ cũng có cái kết ngọt ngào, và bộ phim khép lại với sự tổng hòa của đủ đầy cung bậc cảm xúc: từ đau thương, tiếc nuối đến trọn vẹn, thỏa mãn. Kết thúc này đã giúp người xem cảm thấy hài lòng và thỏa mãn với hành trình của các nhân vật.

Bạch Phong và Phục Linh. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Bạch Phong và Phục Linh. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục

Với một kết thúc viên mãn và đầy cảm xúc, bộ phim Triều Tuyết Lục đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người xem. Bộ phim đã chứng minh rằng, dù trong hoàn cảnh khó khăn, tình yêu và sự kiên trì có thể giúp con người vượt qua mọi thử thách và đạt được hạnh phúc.

Nghĩa Vương cải trang thành hoàng đế nhiều năm. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
Nghĩa Vương cải trang thành hoàng đế nhiều năm. Ảnh: Weibo Triều Tuyết Lục
]]>
Ghi nhớ và viết tiếp câu chuyện hòa bình tại Côn Đảo https://phunuthudo.com/ghi-nho-va-viet-tiep-cau-chuyen-hoa-binh-tai-con-dao/ Wed, 13 Aug 2025 09:28:13 +0000 https://phunuthudo.com/ghi-nho-va-viet-tiep-cau-chuyen-hoa-binh-tai-con-dao/

Côn Đảo – Một Địa Danh Lịch Sử Thiêng Liêng

Là một nhà báo, tôi đã có cơ hội đến thăm nhiều địa danh lịch sử, nhưng Côn Đảo luôn là một nơi đặc biệt. Nơi đây không cần lời giới thiệu hay sắc màu tô điểm để trở nên linh thiêng. Chỉ cần một bước chân đặt xuống, một làn gió biển mặn mòi thoảng qua, là đã thấy lòng trùng xuống, tim nhói lên một niềm kính phục và biết ơn vô hạn. Côn Đảo là nơi từng tấc đất, từng nắm cát, từng con sóng cũng mang trong mình một câu chuyện bi hùng về lòng yêu nước, sự hy sinh và niềm tin son sắt vào ngày mai hòa bình.

Ngày 26/7, tôi có cơ hội đặt chân lên đặc khu thiêng liêng này để tham dự Lễ tri ân các anh hùng, liệt sĩ tại Côn Đảo. Cùng hàng trăm đại biểu, người dân, cựu chiến binh và những người con xa xứ trở về, chúng tôi đã dâng nén hương thành kính tại Nghĩa trang Hàng Keo, Nghĩa trang Hàng Dương, những nơi được xem là “bàn thờ Tổ quốc” giữa biển khơi. Khó có thể diễn tả được cảm xúc của tôi lúc đứng lặng lẽ nghiêng mình trước những ngôi mộ – phần lớn là chưa biết tên – những người con ưu tú của đất mẹ đã ngã xuống trong bóng tối của ngục tù, trong nỗi đau không tên, để góp phần cho ánh sáng tự do được thắp lên cho hôm nay.

Những nén nhang, ngọn nến bập bùng trong gió như là hơi thở của quá khứ vọng về, nhắc nhở chúng ta rằng, để có được những ngày bình yên này, máu xương đã từng đổ xuống biết bao nhiêu. Khi ánh chiều buông xuống, tôi cảm nhận như đất trời lặng im để lắng nghe lời tri ân, để chứng kiến sự tiếp nối thiêng liêng giữa các thế hệ. Những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống không chỉ là của nỗi đau, mà còn là của lòng biết ơn và niềm tự hào vô hạn. Bởi vì trong nơi tưởng như là chốn tận cùng ấy, lại chính là điểm khởi đầu của những điều cao cả nhất – tình yêu đất nước, lòng hy sinh vô điều kiện, và khát vọng độc lập, tự do.

Đêm xuống, tôi tham dự chương trình nghệ thuật “Côn Đảo – Bản hùng ca bất tử” – một khúc tráng ca không chỉ kể về quá khứ mà còn lay động trái tim từng người bằng sức mạnh của nghệ thuật, của âm nhạc, của những ký ức chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm thức dân tộc. Dưới vòm trời đầy sao, tiếng nhạc vang lên như tiếng vọng của những linh hồn anh hùng đang trở về.

Tôi đặc biệt xúc động với ca khúc “Viết tiếp câu chuyện hòa bình”, một bài hát không quá ồn ào, nhưng từng câu từng chữ lại đào sâu vào ký ức, gọi dậy bao hình ảnh hào hùng: “Cha ông ta ngày xưa ngã xuống, để cho đời ta ngày sau đổi lấy hòa bình. Giữa khói binh ai cũng nguyện lòng hy sinh… Để cho đất nước yên vui từ đó. Để cho đỏ thắm màu cờ tự do. Để những tiếng cười vang khắp nơi từ ngày chiến thắng”.

Côn Đảo không chỉ là một địa danh. Côn Đảo là ký ức, là biểu tượng, là chứng nhân. Côn Đảo là nơi lưu giữ những nỗi đau tận cùng nhưng cũng là nơi phát ra ánh sáng rực rỡ nhất của tinh thần bất khuất, nơi “tử vì sinh, mất vì còn, chịu đựng để chiến thắng”.

Tôi xúc động khi nghĩ về những người tù không án – những người dám đứng lên vì lý tưởng cao cả dù biết rằng con đường phía trước là bóng tối nhà tù, là roi vọt, là đòn tra tấn, và có thể là cái chết không tên, không tuổi. Tôi nghĩ về những nữ chiến sĩ kiên cường nơi “chuồng cọp” Côn Đảo, nơi họ vẫn giữ trọn khí tiết, vẫn hát giữa đau thương, vẫn tin vào ngày mai.

Và tôi cũng nghĩ đến những người trẻ hôm nay – thế hệ sinh ra trong hòa bình, lớn lên trong nhịp sống sôi động và tự do. Liệu chúng ta đã hiểu hết giá trị của hòa bình, của độc lập? Liệu chúng ta có đang viết tiếp câu chuyện của cha ông bằng hành động thiết thực, bằng ý chí vươn lên, bằng khát vọng xây dựng đất nước hùng cường?

Đi giữa đêm Côn Đảo, tôi thấy những ngọn nến nhỏ được đặt trước mỗi phần mộ. Ánh nến lung linh soi rọi khuôn mặt trầm ngâm của những người đến viếng. Mỗi ngọn nến như là một lời hứa âm thầm – rằng chúng tôi sẽ không quên, sẽ sống xứng đáng, sẽ tiếp tục hành trình mà các anh, các chị đã khởi đầu bằng máu và nước mắt.

Tôi xúc động đặc biệt khi được trò chuyện với một nữ cựu tù chính trị năm xưa, nay đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn giữ nét cương nghị của một thời không khuất phục. Cô kể lại những ngày tháng bị biệt giam trong phòng tối, chỉ có tiếng rít của roi điện và tiếng gió biển rít qua song sắt làm bạn. Cô kể, bằng giọng đều đều, không một lời oán trách, rằng những người con gái tuổi đôi mươi năm ấy đã cắn răng chịu đựng mọi cực hình chỉ để giữ lại một điều: lòng tin. “Chúng tôi không sợ chết, chỉ sợ Tổ quốc không độc lập” cô nói, mắt nhìn xa xăm về phía Nghĩa trang Hàng Dương.

Tôi tin rằng, chính từ những nơi như Côn Đảo – nơi thử thách con người đến tận cùng – đã sinh ra những giá trị vĩnh cửu. Ở đây, tôi không chỉ thấy cái chết, mà thấy sự sống vĩnh hằng của lòng yêu nước. Tôi không chỉ thấy ngục tù, mà thấy niềm tin mãnh liệt vào một ngày mai.

]]>
Người phụ nữ Việt Nam kiên cường: Tình yêu và hy sinh https://phunuthudo.com/nguoi-phu-nu-viet-nam-kien-cuong-tinh-yeu-va-hy-sinh/ Wed, 30 Jul 2025 10:55:13 +0000 https://phunuthudo.com/nguoi-phu-nu-viet-nam-kien-cuong-tinh-yeu-va-hy-sinh/

Tháng Bảy – tháng của tri ân, của những tưởng nhớ và hoài niệm trong dạt dào cảm xúc thiêng liêng. Chúng tôi đến nhà bà Mã Thị Dung, 89 tuổi, xóm Dẻ Đoóng, xã Hòa An – tấm gương vợ liệt sĩ đã vượt lên nỗi đau mất mát với sự hy sinh cao cả, lòng yêu nước và ý chí kiên cường, sống cuộc đời ý nghĩa trong hành trình góp phần viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc.

Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.
Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.

Trong căn nhà nhỏ, bà Mã Thị Dung ngồi lặng lẽ với đôi mắt ngấn lệ, bàn tay xù xì nhẹ nhàng đặt lên bức ảnh của người chồng là liệt sĩ Nông Quang Khánh. Nhớ những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi, nhớ dáng vẻ kiên cường anh dũng của chồng, nhớ mộ phần liệt sĩ trong sắc xanh của đại ngàn Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.
Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.

Năm 1962, chàng thanh niên mồ côi Nông Quang Khánh nhập ngũ, trong quá trình làm nhiệm vụ đã quen và cảm mến cô gái thùy mị, xinh đẹp Mã Thị Dung khi đó là đội viên thanh niên xung phong. Đầu năm 1964, hai người nên duyên vợ chồng, cuối năm 1964 hạnh phúc nhân đôi khi hai vợ chồng đón cô con gái đầu lòng Nông Thị Bền và đầu năm 1967 tiếp tục đón con trai Nông Trung Kiên ra đời.

Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi chẳng tày gang, đến tháng 6/1967, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn ác liệt, chồng bà đã xung phong vào chiến trường phía Nam để được trực tiếp chiến đấu góp phần giải phóng quê hương. Hòa cùng vào đoàn quân Nam tiến, ông Khánh lên đường đánh giặc, còn bà Dung ở nhà trở lại công việc hằng ngày, chăm sóc con nhỏ cùng nỗi nhớ chồng cồn cào, da diết.

Chiến tranh khốc liệt, bà Dung không nhận được tin tức hay lá thư nào của chồng nhưng bà Dung luôn vững tin, tự nhủ chồng bà sẽ trở về, 2 con sẽ được ở bên người cha bằng xương, bằng thịt chứ không phải qua những câu chuyện bà kể. Nhưng chiến tranh kết thúc mà chồng bà mãi vẫn không trở về, đến năm 1977, sau bao mong ngóng thông tin của chồng, bà Dung nhận được lại là tin báo tử, máu xương người chồng bà thương nhớ đã hòa quyện nơi chiến trường.

Đau đớn là thế nhưng bà cố gắng gượng đứng lên vì 2 con, vì niềm tự hào khi chồng anh dũng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc trở thành động lực mạnh mẽ giúp bà không quản khó khăn, mất mát. Sau niềm an ủi đã tìm được mộ phần của chồng, bà Dung trăn trở với nỗi niềm nên đưa ông về với quê hương để con cái được gần gũi chăm sóc phần mộ và để xứng đáng với tình hiếu nghĩa, đạo lý vợ chồng hay để ông nằm lại nơi chiến trường nơi ông và các đồng đội đã anh dũng chiến đấu và hy sinh.

Hằng năm, bà và các con lại thu xếp thời gian vào thăm mộ ông Khánh, đến năm 2000, bà Dung mạnh mẽ quyết định không di dời hài cốt ông về với gia đình mà để ông Khánh yên nghỉ nơi linh thiêng khu mộ liệt sĩ Cao Bằng của Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Người vợ liệt sĩ như bà Mã Thị Dung cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác đều đã gói lại niềm riêng, sẵn sàng gạt tình yêu, hạnh phúc gia đình sang một bên để chồng yên tâm lên đường bảo vệ Tổ quốc. Mạnh mẽ vượt lên mọi mất mát, đau thương vẫn một lòng thờ chồng, nuôi con trưởng thành, là hậu phương vững chắc cho người lính đã nằm lại chiến trường phía Nam, góp phần cho đất nước hôm nay nở hoa.

]]>