Miền núi – Phunuthudo.com https://phunuthudo.com Tạp chí phụ nữ thủ đô Tue, 19 Aug 2025 06:25:19 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/phunuthudo/2025/08/phunuthudo-icon.svg Miền núi – Phunuthudo.com https://phunuthudo.com 32 32 Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://phunuthudo.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Tue, 19 Aug 2025 06:25:13 +0000 https://phunuthudo.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả để cải thiện hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế…

Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Vụ Pháp chế: Đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác dân tộc https://phunuthudo.com/vu-phap-che-dong-gop-tich-cuc-vao-viec-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/ Sun, 03 Aug 2025 18:25:03 +0000 https://phunuthudo.com/vu-phap-che-dong-gop-tich-cuc-vao-viec-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/

Trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách pháp luật đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Một trong những điểm nhấn quan trọng nhất trong giai đoạn này là việc tham mưu cho cấp thẩm quyền ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Đây là một nỗ lực đáng kể nhằm thúc đẩy sự phát triển của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề
Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề

Bên cạnh đó, đơn vị cũng đã tham mưu ban hành các nghị định về công tác dân tộc, về phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo và các thông tư hướng dẫn để chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025. Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Để khắc phục những hạn chế này, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế. Công tác xây dựng pháp luật phải tiên phong, đi trước và lấy chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng thể chế là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần chuyên nghiệp hóa nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát; xác định công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của Bộ, cơ quan.

Vụ Pháp chế đã tham mưu ban hành Kế hoạch rà soát, hoàn thiện hệ thống, cơ chế, chính sách, pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc. Đồng thời, Vụ cũng đã tham mưu ban hành Kế hoạch xây dựng Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng và địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quyết định thành lập Tổ soạn thảo xây dựng dự thảo Đề án Phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nhiệm vụ ưu tiên trong năm 2026 là đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết mới về chủ trương, chính sách lớn, các đột phá chiến lược tầm nhìn đến năm 2045 về công tác dân tộc và trình Quốc hội sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

]]>
Hội phụ nữ tỉnh giúp hàng nghìn chị em thoát nghèo nhờ vốn vay ưu đãi https://phunuthudo.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-nghin-chi-em-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/ Tue, 29 Jul 2025 09:55:13 +0000 https://phunuthudo.com/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-nghin-chi-em-thoat-ngheo-nho-von-vay-uu-dai/

Trong những năm gần đây, các cấp hội phụ nữ tỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp hàng nghìn hội viên phụ nữ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi chính sách, thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn. Quá trình vay và cho vay vốn luôn được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng đối tượng và đúng quy trình.

Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.
Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.

Các cấp hội phụ nữ đã tích cực hỗ trợ hội viên trong việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội. Hội viên được hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn một cách bài bản, tư vấn cách sử dụng vốn hiệu quả và cam kết trả nợ đúng hạn. Qua đó, nhiều hội viên phụ nữ đã có thể khởi sự kinh doanh, xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả và trở thành trụ cột kinh tế trong gia đình.

Một điển hình trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi là bà Đỗ Thị Lợi, thôn Chợ, xã Thống Nhất. Từ 3 cặp bò mẹ con ban đầu, sau 5 năm, nhờ sự kiên trì học hỏi kỹ thuật và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ, đàn bò của gia đình đã phát triển lên 50 con, cho thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Cuộc sống gia đình dần ổn định, khang trang, con cái học hành đầy đủ.

Bên cạnh đó, nhiều hội viên đã chuyển hướng sang kinh tế vườn tổng hợp. Bà Trần Thị Vân, xã Thống Nhất, với 3ha đất vườn đồi đã đầu tư trồng cây thanh long ruột đỏ, na, vải, ổi… cho thu nhập 150-200 triệu đồng mỗi năm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi được tiếp cận minh bạch và sự hướng dẫn kỹ thuật từ hội phụ nữ, mô hình của bà không chỉ thành công, mà còn trở thành địa chỉ học tập cho nhiều chị em khác.

Để tạo điều kiện vay vốn làm ăn cho hội viên, Hội thường xuyên phổ biến các chính sách cho vay, công khai, minh bạch trong việc lựa chọn đối tượng được vay và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ vay vốn. Sự phát triển của các mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ không chỉ thể hiện sự minh bạch trong cho vay vốn đúng người, đúng việc, mà còn cho thấy sự ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất.

Mô hình trang trại trứng gà Tân An của chị Phạm Thị Nguyệt Dung, phường Quảng Yên là một ví dụ. Nhờ số hóa quy trình từ chăn nuôi đến bán hàng, mỗi ngày trang trại cung cấp khoảng 5 vạn trứng ra thị trường, doanh thu đạt 60 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho hàng chục lao động. Toàn tỉnh hiện có hàng trăm mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn do phụ nữ quản lý. Nhờ hoạt động công khai, dân chủ, minh bạch, các mô hình này không chỉ giúp hội viên phát triển kinh tế, mà còn củng cố niềm tin vào tổ chức Hội.

Những người phụ nữ từng e ngại tiếp cận tài chính, nay đã trở thành trụ cột kinh tế, chủ động trong sản xuất, kinh doanh và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến cộng đồng. Trong thời gian tới, các cấp hội phụ nữ tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối chính sách, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý vốn, đồng thời khuyến khích các mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tiếp cận công nghệ, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

]]>
Đầu tư phát triển cho vùng sâu, vùng xa: Cần sự hỗ trợ toàn diện https://phunuthudo.com/dau-tu-phat-trien-cho-vung-sau-vung-xa-can-su-ho-tro-toan-dien/ Sun, 27 Jul 2025 16:02:21 +0000 https://phunuthudo.com/dau-tu-phat-trien-cho-vung-sau-vung-xa-can-su-ho-tro-toan-dien/

Trong những năm gần đây, hệ thống điện, đường, trường, trạm tại các xã vùng sâu, vùng xa đã được xây dựng và nâng cấp đồng bộ. Sự phát triển hạ tầng đã mang lại nhiều thay đổi tích cực cho cuộc sống của người dân, giúp việc đi lại và giao thương trở nên thuận lợi hơn. Những con đường đất đã được bê-tông hóa, nhựa hóa, tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hóa và dịch vụ. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, cung cấp môi trường học tập tốt cho con em đồng bào và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên. Trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên.

Một cách tiếp cận mới trong việc xóa nghèo là hỗ trợ người dân thay đổi tư duy và ý thức, giúp họ tự vươn lên. Cách làm này đã được chứng minh là hiệu quả hơn việc chỉ cung cấp hỗ trợ trực tiếp. Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương. Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha.

Đầu tư vào hệ thống y tế cũng là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng sâu, vùng xa. Tại các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước, trước đây hạ tầng y tế thiếu và yếu, nhưng nhờ được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân. Những hỗ trợ này không chỉ giúp người dân vượt qua khó khăn mà còn mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển bền vững.

]]>